CÁC DẠNG ĐỀ THI MÔN ĐỊA LÝ
Phần lý thuyết
Môn
Địa lý vẫn theo hình thức tự luận. Qua các năm, đề thi tuyển sinh ĐH-CĐ
môn Địa lý có 3 câu: 2 câu lý thuyết (6,5 - 7,0/10 điểm) và 1 câu thực
hành (3,0 - 3,5 điểm). Trong 2 câu lý thuyết có 1 câu bắt buộc dùng
chung cho cả 2 đối tượng thí sinh, 1 câu tự chọn dành riêng cho thí sinh
học chương trình khác nhau. Thí sinh cần nắm kiến thức cơ bản một cách
toàn diện và có hệ thống. Trong quá trình học, cần xây dựng đề cương một
cách chặt chẽ, rõ ràng, đầy đủ của từng bài và từng vấn đề của chương
trình. Cũng cần lưu ý những số liệu dẫn chứng cần thiết, phù hợp (có thể
sử dụng số liệu mới cập nhật nhưng phải kèm theo năm).
+ Câu lý thuyết dành cho cả 2 chương trình: Gồm
các nội dung về: dân cư, lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, ngoại
thương, giao thông vận tải, những vấn đề phát triển kinh tế xã hội trên
các vùng lãnh thổ... Vì vậy, học sinh học chương trình cải cách có thể
tham khảo thêm sách thí điểm chuyên ban (và ngược lại) để có được kiến
thức phong phú hơn.
+ Câu lý thuyết tự chọn: Thường
là những nội dung, những vấn đề riêng, không trùng lặp ở 2 chương trình
như về tài nguyên thiên nhiên, đường lối phát triển kinh tế xã hội, vấn
đề giáo dục, y tế, văn hóa, VN trong mối quan hệ với các nước Đông Nam
Á... (chương trình cải cách); lịch sử hình thành và phát triển lãnh thổ
Việt Nam, đặc điểm chung của tự nhiên, vấn đề sử dụng và bảo vệ tự
nhiên; chất lượng cuộc sống, đô thị hóa ở Việt Nam; đặc điểm nền nông
nghiệp, địa lý ngành thủy sản, lâm nghiệp, vấn đề phát triển công nghiệp
năng lượng... (chương trình phân ban thí điểm). Để làm tốt phần lý
thuyết, thí sinh cần nắm và phân biệt được các dạng đề thường gặp như
dạng trình bày hoặc phân tích, dạng chứng minh, dạng giải thích, dạng so
sánh...
Phần thực hành (bắt buộc)
Đề
thi thường cho sẵn bảng số liệu rồi yêu cầu vẽ biểu đồ, qua đó nêu nhận
xét và giải thích hiện tượng. Đây là phần đề thi mà trong quá trình làm
bài có nhiều thí sinh còn rất lúng túng và gặp khó khăn bởi vì phần này
đòi hỏi nhiều kỹ năng để thực hiện.
+ Vẽ biểu đồ: Từ
một bảng số liệu đã cho, có nhiều cách thể hiện biểu đồ khác nhau với
mức độ hiệu quả cũng khác nhau. Tuy nhiên trong đề thi các năm gần đây
thường yêu cầu vẽ loại biểu đồ thích hợp nhất. Vì vậy, trong quá trình
học và rèn luyện các em cần nắm chắc những kiến thức về biểu đồ, phân
biệt được các dạng biểu đồ để xác định đúng biểu đồ thích hợp nhất theo
yêu cầu của đề bài, phải chú ý đến mối quan hệ giữa các tiêu chí trong
bảng số liệu, vấn đề xử lý số liệu phù hợp yêu cầu của đề và biểu đồ đã
chọn. Tuy nhiên, trong xử lý số liệu, cần rèn luyện kỹ năng tính toán,
đặc biệt từ những số liệu của các tiêu chí đã có phải tạo các tiêu chí
và số liệu mới (từ số liệu về dân số, diện tích thì phải tính được mật
độ dân số...) cùng với đơn vị sử dụng. Vẽ biểu đồ, thí sinh cần thể hiện
sự chính xác, đầy đủ các yếu tố của biểu đồ. Các dạng biểu đồ thường
gặp: biểu đồ cột (cột đơn, cột ghép, cột chồng), biểu đồ tròn, biểu đồ
đường (đồ thị, đường biểu diễn), biểu đồ miền (số liệu tương đối, số
liệu tuyệt đối), biểu đồ kết hợp (cột và đường).
+ Về nhận xét: Thường
dựa vào bảng số liệu (số liệu thô hoặc đã qua xử lý), dựa vào biểu đồ
đã vẽ. Nhận xét trước hết phải dựa vào yêu cầu của đề bài để tránh lệch
hướng. Các nhận xét phải từ khái quát đến cụ thể, mối quan hệ giữa các
nội dung, tiêu chí; không bỏ sót số liệu nhưng cũng không nên tỉ mỉ. Đối
với bảng số liệu hoặc biểu đồ có nhiều năm thì phải nêu được đặc điểm
biến động của hiện tượng (biến động chung, biến động theo từng giai đoạn
nhất định). Trong nhận xét, cần chú ý đến việc xử lý số liệu để dẫn
chứng, làm rõ ý nhận xét.
+ Về giải thích:Cần
phải có kỹ năng vận dụng kiến thức đã có được để giải thích hiện tượng
như phải biết chọn lọc, tổng hợp và sắp xếp kiến thức phù hợp với yêu
cầu của đề bài.
Lưu ý khi làm bài
-
Đọc đề thật kỹ để nhận dạng đề thi, giúp xác định đúng yêu cầu của đề
thi và hình thành được cách giải, tránh bị lệch hướng, lạc đề.
- Phải phác thảo đề cương với các ý chính, rồi các ý chi tiết.
-
Phân bố thời gian hợp lý cho từng câu hỏi, trung bình mỗi câu khoảng 50
phút, tránh tập trung thời gian vào 1 hoặc 2 câu. Thời gian còn lại
dành cho việc hoàn chỉnh, xem lại bài.
-
Diễn đạt cần súc tích, rõ ràng, chính xác. Tránh diễn đạt dài dòng đi
xa nội dung yêu cầu của đề thi. Trong bài làm có thể phân ra các mục 1,
2, 3... a, b, c... và gạch đầu dòng các ý chi tiết.
Theo Thanh Niên